Người Pháp thua ở Điện Biên Phủ vì nhiều lẽ, nhưng trước hết họ thua vì quân và dân ta đã lập được những kỳ tích ngoài sức tưởng tượng của họ. Điện Biên Phủ là chiến dịch lớn nhất trong suốt 9 năm chống Pháp. Lần đầu tiên quân đội ta tập trung nhiều đại đoàn với quân số hơn 50.000 người tham gia một chiến dịch dài ngày. Thêm vào đó, lần đầu tiên ta có pháo cao xạ và pháo mặt đất 105mm. Những đặc điểm đó đặt ra yêu cầu về hậu cần cũng cao hơn các chiến dịch trước rất nhiều.
Trước hết phải mở các con đường cơ giới lên Điện Biên để vận chuyển pháo, để chuẩn bị tấn công Điện Biên, ta đã sửa chữa và mở hàng trăm km đường, sửa chữa đường 41 từ Hòa Bình lên Suối Rút và từ Suối Rút lên Sơn La với tổng chiều dài trên 200 km. Củng cố 300 km đường từ Yên Bái đến Sơn La (theo trục đường 13). Làm mới 89 km đường từ Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Ngoài ra còn mở các đường phụ từ Thanh Hóa lên Điện Biên và các đường kéo pháo, đường cơ giới vào sở chỉ huy, vào kho và trận địa…
Việc mở đường vượt qua địa hình đồi núi trong điều kiện quân và dân ta chỉ dựa vào sức người với các phương tiện thô sơ, khó khăn nhất là khi bạt núi làm đường ta lại có ít thuốc nổ. Bộ đội và dân công đã áp dụng những kinh nghiệm cổ truyền để phá đá theo công thức: “Lấy củi mà đốt liền hơi, tức thì đá nóng như sôi, lấy nước mà giội đá thời khắc tan”.
Đương đầu với khó khăn, những người lính, người dân công Việt Nam vẫn kiên trì và lạc quan để sáng tạo ra những câu ca đúc kết ngay chính công việc của mình. Ví dụ như câu ca nêu kinh nghiệm các loại đá: “Thớ vàng thớ trắng ngon xơi, Thớ đen thớ xám thì hơi khó nhằn…”
Mở đường đã khó nhưng giữ cho con đường tồn tại còn khó hơn. Trong vấn đề này có hai khó khăn lớn là thiên tai và nhân họa. Thiên tai là mưa lũ còn nhân họa là máy bay Pháp ngày đêm săm soi tìm đường mới mở để đánh phá. Khắc phục máy bay Pháp, quân dân ta đã sáng tạo nhiều biện pháp ngụy trang kín đáo. Ở những trọng điểm không ngụy trang được thì tổ chức những đội túc trực san lấp hố bom để đảm bảo cho đường không bị tắc.
Mưa lũ làm cho những con đường đất mới mở trở nên lầy lội, nếu không có biện pháp khắc phục thì đường cũng thành vô dụng vì xe không chạy được. Để chống lầy lội, ta đã sử dụng hàng loạt biện pháp: xây kè, làm rãnh thoát nước và rải đá mặt đường. Có những chỗ quá xa nơi lấy đá thì phải dùng gỗ làm rông đanh. Thêm vào đó, lực lượng tu sửa được rải ra khắp nơi để ngày đêm chiến đấu với mưa lũ.
Sau thất bại Điện Biên Phủ, nhiều tướng lĩnh và học giả Pháp cho rằng yếu tố Việt Minh có trọng pháo là một trong những bất ngờ lớn nhất của quân Pháp ở Điện Biên. Thực ra nói cho chính xác thì người Pháp không hề bất ngờ về việc Việt Minh có pháo. Cái mà họ bất ngờ là Việt Minh có thể đưa được pháo lên những dãy núi cao để bắn họ.

Quân ta kéo pháo vào trận địa.
Sau khi mạng đường đã được xác định trên sơ đồ, yêu cầu đặt ra với hai trung đoàn của đại đoàn 308 là trong một ngày đêm phải mở xong con đường trên 10km để kéo pháo vào trận địa. Cán bộ công binh tính toán và lo ngại. Trong 24 giờ, phải hàng vạn dân công mới làm kịp. Nếu chỉ có hai trung đoàn, ít nhất phải tăng thời gian lên gấp 5 lần.
Vậy mà quân ta đã đạt được một kết quả không hề lường trước: Chỉ sau 20 giờ lao động khẩn trương và chỉ với cuốc xẻng, dao, choòng và mìn phá đá, 5.000 chiến sĩ đại đoàn 308 đã hoàn thành tuyến đường vượt kế hoạch của Bộ tham mưu mặt trận. Thêm một thành tích nổi bật, tô thắm truyền thống mở đường thắng lợi của quân đội ta”.
Sau thành tích mở đường kéo pháo thì đến việc kéo pháo vào trận địa cũng là một kỳ tích. Đưa những khẩu pháo nặng trên 2 tấn vượt qua những đoạn dốc có khi đến 60 độ mà chỉ dùng sức người là một điều không tưởng. Ấy vậy, bằng ý chí quyết tâm và tinh thần khắc phục khó khăn, bộ đội ta đã đưa được pháo vào trận địa đặt trên sườn núi để dội bão lửa xuống lòng chảo Mường Thanh tiêu diệt quân Pháp.
Ngoài ra, phải kể đến một kỳ tích nữa là việc đảm bảo lương thực cho đội quân gồm mấy đại đoàn của ta. Trong chiến dịch này, Chính phủ đã huy động gần 30 vạn dân công đi phục vụ chiến dịch. Tuy vậy, chiến trường Điện Biên cách các vùng tự do của ta trung bình 400 đến 500 km nên việc tiếp tế lương thực rất khó khăn.

Dân công tải gạo bằng xe đạp thồ lên Điện Biên.
Mỗi dân công gánh được khoảng 20-30kg gạo nhưng đường xa nên số gạo phải dùng cho cả người gánh. Bởi vậy khi đến đích chẳng còn là bao. Trong hoàn cảnh đó, một phương tiện tuy không hiện đại nhưng rất đắc dụng đã xuất hiện. Đó là xe đạp thồ. Hàng ngàn xe đạp thồ đã được sử dụng để tải gạo lên Điện Biên.
Trung bình mỗi xe đạp thồ chở được 150 đến 200 kg mà chỉ cần 2 người. Và cũng như ở mặt trận mở đường, trên mặt trận thồ hàng, các dân công lại thi đua với nhau và Kỷ lục thồ hàng thời Điện Biên thuộc về anh Cao Văn Tý và Ma Văn Thắng. Hai anh đã thồ được 325 kg – gấp 13 lần dân công gánh.
(Theo:https://baomoi.com/ky-tich-ngoai-suc-tuong-tuong-lam-nen-chien-thang-dien-bien-phu/c/25923695.epi)